Theo
đó, Nghị định này quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ bí mật
nhà nước về xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước; sao,
chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước; giao, nhận tài liệu, vật chứa
bí mật nhà nước; mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu
giữ; địa điểm tổ chức, phương án bảo vệ và sử dụng các phương tiện,
thiết bị tại hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung bí mật nhà nước;
chế độ báo cáo về công tác bảo vệ bí mật nhà nước và phân công người
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bí mật nhà nước.
Xác định bí mật nhà nước
và độ mật của bí mật nhà nước được quy định tại Điều 2, theo đó, người
soạn thảo tài liệu, tạo ra vật chứa bí mật nhà nước phải có văn bản đề
xuất người đứng đầu cơ quan, tổ chức xác định độ mật của bí mật nhà
nước, phạm vi lưu hành, được phép hoặc không được phép sao, chụp tài
liệu, vật chứa bí mật nhà nước và có trách nhiệm bảo vệ nội dung bí mật
nhà nước trong quá trình soạn thảo, tạo ra. Trường hợp tiếp nhận thông
tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, người tiếp nhận được giao xử lý phải
có trách nhiệm bảo vệ thông tin và đề xuất người đứng đầu cơ quan, tổ
chức xác định bí mật nhà nước, độ mật của bí mật nhà nước; nếu thông tin
tiếp nhận không thuộc chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức thì
chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để xử lý.
Điều 3 quy định về sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước với nội dung như sau:
- Việc sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước phải tiến hành ở
nơi bảo đảm an toàn do lãnh đạo của cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý
bí mật nhà nước quy định. Việc sao, chụp phải được ghi vào “Sổ quản lý
sao, chụp bí mật nhà nước”.
- Tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước sau khi được sao, chụp phải đóng dấu sao, chụp hoặc có văn bản ghi nhận việc sao, chụp.
- Mẫu dấu sao, chụp bí mật nhà nước; sổ quản lý sao, chụp bí mật nhà
nước và vị trí đóng dấu sao, chụp được thực hiện theo quy định của Bộ
Công an.
Điều 5 quy định về mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ như sau:
- Người mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ để
phục vụ công tác trong nước, nước ngoài phải có văn bản xin phép người
có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 14 của Luật Bảo vệ
bí mật nhà nước. Khi kết thúc nhiệm vụ phải báo cáo người có thẩm quyền
cho phép mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ và
nộp lại cơ quan, tổ chức.
- Văn bản xin phép mang tài liệu, vật
chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ để phục vụ công tác trong nước,
nước ngoài phải nêu rõ họ, tên, chức vụ, đơn vị công tác; độ mật của bí
mật nhà nước; mục đích sử dụng; thời gian, địa điểm công tác; biện pháp
bảo vệ bí mật nhà nước.
Toàn văn dự thảo Nghị định được đăng trên
Cổng Thông tin điện tử Bộ Công an để lấy ý kiến đóng góp của nhân
dân trong thời gian 02 tháng kể từ ngày đăng./.
Nguồn: Bộ Công an